Bằng những nét vẽ tài hoa ấy, Quang Dũng đã tạo nên một "Tây Tiến" mang đậm nét riêng, rất cá tính của ông. - "Tây Tiến" được sáng tác tại Phù Lưu Chanh năm 1948, đúng một năm sau khi tác giả chia xa đơn vị cũ. Tây Tiến (352 bài) Tuần 7. Tây Tiến - Mai Ly; Tuần 7. Tây Tiến - Tạ Thành Long Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi (6 bài) Giá trị văn học và tiếp nhận văn học (15 bài) Tuần 33. Giá trị văn học và tiếp - PHƯƠNG MAI; Thuyết minh về con Trâu Việt Nam. "Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần chủng, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Lông màu xám hoặc xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp ngắn bụng to, mông đốc, bầu vú nhơ, sừng có hình lưỡi liềm". Ngày xưa, người ta phân biệt trâu lành hay Bài soạn Ngữ Văn Lớp 12 Tập 2: Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) Viết bài làm văn số 5: Nghị luận văn học. Nhân vật giao tiếp. Vợ Nhặt (Kim Lân) Nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi. Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành) Bắt sấu rừng U Minh Hạ (Sơn Nam) Viết bài làm [14/10/2022 12:10:17] Sáng 14/10/2022, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị trực tiếp kết hợp với trực tuyến quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế- xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Sau khi hoàn tất kết luận điều tra, Cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an vừa đề nghị VKSND tối cao truy tố 10 bị can về tội "Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí", xảy ra tại Tổng công ty Công nghiệp Sài Gòn - TNHH MTV (CNS), Công ty Cổ phần TIE (công ty con của CNS). eAZZoGN. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ " Tây Tiến" Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với Quang Dũng viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ như sau " Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh một làng thuộc tỉnh Hà đông cũ _ anh biết bài thơ "Tây Tiến" Muốn hiểu được bài thơ Tây Tiến, trước hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân Tây Tiến cùng với điạ bàn hoạt động cuả nó. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào_Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Điạ bàn hoạt động cuả đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và Thượng Lào từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây Thanh Hoá. những nơi này lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, nuí cao, sông sâu, rừng dầy, nhiều thú dữ. Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên Quang Dũng thuộc số này. Sinh hoạt cuả những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt cuả chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn. Bài thơ "Tây Tiến" có 2 đặc điểm nổi bật cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở "cái tôi" đầy tình cảm, cảm xúc cuả nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yêú tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ. Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn cuả Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vưà đa dạng vưà độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng cuả núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung cuả cộng đồng, cuả toàn dân tộc. "Tây Tiến" không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo cuả bài thơ. Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian "Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng nuí nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi" Nỗi nhớ đơn vĩ cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ "chơi vơi" như vẽ ra trạng thái cụ thể cuả nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, sông sâu, vực thẳm, rừng dầy liên tiếp xuất hiện ở những câu thơ sau "Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" Khổ thơ này là một bằng chứng "thi trung hữ hoạ" trong thơ có hoạ. Chỉ bằng 4 câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút cuả núi rừng Tây Bắc, điạ bàn hoạt động cuả đoàn quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình "khúc khủyu", "thăm thẳm", "cồn mây", "súng ngửi trời" đã diễn tả thật đắc điạ sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời cuả núi đèo Tây Bắc. Hai chữ "ngửi trời" được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vưà ngộ nghĩnh, vưà có chất tinh nghịch cuả người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn "heo hút".Người lính trèo lên những ngọn nuí cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ 3 như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nếu như câu thứ ba nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mùng sương rừng mưa núi thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giưã biển khơi. Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét vẽ rất mềm mại câu thứ tư toàn thanh bằng. Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ. Cái vẻ hoang dại dữ dội, chưá đầy bí mật ghê gớm cuả nuí rừng Tây Bắc được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cả chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người. "Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người" Vậy là cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh đầy giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả và nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu thơ có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vưà đa dạng, vưà độc đáo cuả núi rừng Tây Bắc. Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu muà em thơm nếp xôi" Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt suối, lội đèo, những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm luá nếp ngày muà xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áo, chuẩn bị tâm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai. Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác cuả Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng cuả miền đất này. Những nét vẽ táo bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Và ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này. Hồn thơ lãng mạn cuả Quang Dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn cuả con người và cảnh vật nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy được thể hiện lên trong một thời gian làm nổi rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo cuả nó cảnh một đêm liên hoan lưả đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều sương phủ trên sông nước mênh mang. Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ cuả những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kià em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu buồn e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ" Cả doanh trại "bừng sáng", tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh cuả ngọn lưả đuốc trong âm thanh réo rắt cuả tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ "kìa em" thể hiện một cái nhìn vưà ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vưà mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm, linh hồn cuả đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng tây bắc bất ngờ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, vưà tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ đã thu hút cả hồn viá những chàng trai Tây Tiến. Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc không khí mê say, ngây ngất thì cảnh sông nước Tây Bắc lại gợi lên được cái cảm giác mêng mang, mờ ảo "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa" Không gian dòng sông trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. Trên dòng sông đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển cuả một cô gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng "đong đưa" làm duyên trên dòng nước lũ. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi, vậy mà cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngoài bút cuả ông như có hồn phảng phất trong gió, trong cây. Ông không chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp cuả thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng cuả cảnh vật. Đọc đến đoạn thơ này ta như lạc vào thế giới cuả cái đẹp, thế giới cuả cõi mơ, cuả âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên tự tâm hồn ngây ngất, say mê cuả những người lính Tây Tiến. Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở cuả núi rừng và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ cuả Tây Bắc, đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuât hiện với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gởi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất cuả những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát được cái gương mặt chung cuả cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yêú cuả bức tượng đài, chúng hoà quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau, tạo nên vẻ đẹp bi tráng - cái thần thái chung cuả cả bức tượng đài. Thơ ca thời kháng chiến chỉ viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài "Đồng chí" đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy "Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi" Còn Tố Hữu , khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài "Cá nước" với những hình ảnh thật cụ thể "Giọt giot mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ" Cũng không quên ảnh hưởng cuả thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến không hề che giấu gian khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao cuả người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngoài bút của ông, không được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc cuả người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh li kì, giật gân, sảnh phẩm cuả trí tưởng tượng biạ đặt cuả nhà thơ mà chưá đựng một sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến người thì cạo trọc đầu để thuận lợi tiến khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét cuả những người lính, qua cái nhìn cuả Quang Dũng vẫn toát lên cái oai phong dữ dằn cuả những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ "mắt trừng gửi mộng" cuả họ. Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút cuả Quang Dũng, không phải là những người khổng lồ không tim. Cái nhìn nhiều chiều cuả Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng dữ dằn bề ngoài cuả họ, là những tâm hồn, những trái tim rạo rực, khao khát yêu đương Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ cuả họ. Ngòi bút cuả Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng cuả ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh cuả lí tưởng, cuả tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gọi lên qua hình ảnh cuả những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính, trang trọng “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng quên mình, xả thân vì tổ quốc cuả những người lính Tây Tiến Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Những người lính tây Tiến tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng vẫn chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp cuả những người tráng sĩ thuở xưa, coi nhẹ cái chết tựa lông hồng. Cái sự thật bi thương những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có cả đến manh chiếu để che thân, qua cái nhìn cuả Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo bào sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm “anh về đất” và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội cuả dòng sông Mã “Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Trong cái âm hưởng vưà dữ dội, vừa hào hùng cuả thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh cuả những người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Giọng điệu chủ đạo cuả đoạn thơ thứ ba này sang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân trọng, kính cẩn cuả nhà thơ trước sự hi sinh cuả đồng đội. Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa , tô đậm thêm không khí chung cuả cái thời Tây Tiến, tinh thần chung cuả những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng cái linh hồn cuả đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng “Tây Tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây Tiến muà xuân ấy Hồn về Sầm Nưá chẳng về xuôi” Cái tinh thần “ nhất khứ bất phục hoàn” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm cuả cả đoàn quân Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm cuả những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt với những ngày Tây Tiến, những nơi mà Tây Tiến đã qua. “Tây Tiến muà xuân ấy” đã thành một thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc không bao giờ lặp lại cái thời thơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khốc liệt đến như vậy. Sưu tầm Nghị luận văn học So sánh Tây Tiến và Chiều Tối Đi dọc vào quyển biên niên sử Việt Nam, ta thấy những tác phẩm không tồn tại một cách độc lập mà liên kết với nhau bằng một liên kết vô hình. Chính nhờ sự liên kết ấy mà các bài thơ được thể hiện ý nghĩa một cách tối đa, trọn vẹn nhất. “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Chiều tối” của Hồ Chí Minh cũng có những mối liên kết ấy. Mời bạn đọc tham khảo bài so sánh Tây Tiến và Chiều tối. So sánh Tây Tiến và Chiều tối Mở bài so sánh bài thơ Tây Tiến và bài thơ chiều tối Có những áng thơ chứa đựng trong mình là cả một dòng chảy lịch sử của dân tộc. Là Tây Tiến của Quang Dũng khắc họa bức tranh về người lính Tây Tiến bất chấp khắc nghiệt của tạo hóa, thiên nhiên hay bom đạn khói lửa ra đi với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” thời đầu kháng chiến chống Pháp. Là Chiều tối của Hồ Chí Minh mang hình ảnh người bộ đội cụ Hồ dẫu bị xiềng xích nô lệ trói buộc nhưng tinh thần vẫn hướng về tự do trong kháng chiến. Xem thêm Cảm nhận bài thơ chiều tối của Hồ Chí Minh Phân tích bài thơ chiều tối Thân bài so sánh Tây Tiến và Chiều tối Được viết vào những thời kỳ khác nhau, song cả hai tác phẩm đều tái hiện lại một giai đoạn máu lửa, uy nghiêm lên quyển biên niên sử hào hùng của dân tộc. Bài thơ Tây Tiến Quang Dũng Tây Tiến là đứa con tinh thần thành công nhất của Quang Dũng khi gánh lên người sứ mệnh tái hiện lại hình ảnh những chiến giai đoạn đầu kháng chiến chống Pháp. Tây Tiến còn là sự kết tinh của nỗi nhớ về đồng đội, về những ngày kháng chiến gian lao khi tác giả ngồi ở Phù Lưu Chanh năm 1948 nhớ về những tháng ngày cùng nhau vào sinh ra tử với đồng đội. Tuy vỏn vẹn một năm gắn bó, hình ảnh binh đoàn Tây Tiến vẫn hằn đậm lên tim ông bất chấp chiến tranh và quyện hòa trong từng con chữ. Bài thơ ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến nhưng khi in được ông đổi thành Tây Tiến vì theo ông “Tây Tiến, nhắc đến là đã thấy nỗi nhớ rồi thế nên để từ “Nhớ” là thừa, không cần thiết”. Xem thêm Phân tích vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong chiều tối Top 3 cách viết mở bài chiều tối hay nhất Bài thơ Chiều tối Hồ Chí Minh Chiều tối là bài thơ thứ 31 được trích từ tập Nhật ký trong tù, tái hiện lại những ngày tháng Hồ Chí Minh bị giam cầm khổ sai dưới ách thống trị của quân cầm quyền Tưởng Giới Thạch. Có thể nói Nhật ký trong tù như một bản ghi chép tường tận những tháng ngày Bác bị giam cầm nơi xứ người. Đôi lúc là sự bất lực bởi bản thân đang chịu cảnh ngục tù, không thể đứng dậy cùng với đồng bào được bộc lộ mạnh mẽ qua “Buồn bực”. Đôi lúc là tâm hồn thi sĩ say mê với vẻ đẹp của ánh trăng được thể hiện qua “Ngắm trăng”. “Chiều tối” được sáng tác vào cuối năm 1942, trên đường vị lãnh tụ tài ba của Việt Nam bị chuyển lao từ Tĩnh Tây sang Thiên Bảo. Tuy ngục tù gian khổ là thế, bài thơ vẫn toát lên được phong thái ung dung, tự tại, lạc quan, yêu đời. Tinh thần chiến sĩ mạnh mẽ trong Tây Tiến và Chiều tối Ở “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta dễ dàng thấy được tinh thần của người chiến sĩ được hiện ra với hai sắc thái bi tráng và là lãng mạn. Ngay từ khổ đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa nên bức tranh về quá trình hành quân gian khổ trên nền thiên nhiên Tây Bắc khắt nghiệp. “Sương lấp”, “dốc khúc khuỷu”, “dốc thăm thẳm”, thiên nhiên như muốn làm chùn lại bước chân của binh đoàn Tây Tiến. Thế nhưng thể lực tuy đã hao kiệt nhưng ý chí vẫn vững vàng, kiên trung. Đoàn binh cứ thế tiếp nối nhau từng bước, bất kể phía trước kia “sương lấp” không rõ có gì, hai bên lại là vực sâu trực chờ tước đi mạng sống, họ vẫn khí thế tiến lên. Dẫu biết rằng “Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh” nhưng những chàng trai trẻ vỏn vẹn mười chín, đôi mươi vẫn đi lên theo tiếng gọi Tổ Quốc. Tinh thần bất diệt ấy vẫn tồn tại đến tận khi họ nằm xuống, hòa mình vào gấm vóc non sông. Các chiến sĩ hy sinh thân thể, làm tất cả cốt để giành lại sự tự do. Có những chiến sĩ sốt rét rừng ngày đêm chống chọi với cơn đau nơi rừng thiêng nước độc, sẵn sàng cạo trọc đầu để đối phó với những trận giáp lá cá. Thế nhưng, giữa bức tranh hào hùng ấy vẫn hiện lên những vết tích đau thương của chiến tranh, có những chiến sĩ dang dở đoạn đường trên hành trình thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. So sánh Chiều tối và Tây Tiến Hình ảnh “đoàn quân mỏi” kết hợp các động từ “dãi dầu”, “gục” cho thấy sự thấm mệt sau những ngày tháng hy sinh. Đó có thể là thoáng nghỉ lưng chóng vánh, cũng có thể là bước chân cuối cùng trước khi trở về cõi vĩnh hằng. Tuy “về đất”, họ vẫn giữ được nét thanh lịch, hào hoa của mình, hy sinh với tấm “áo bào” là màu áo xanh đã đôi chỗ chắp vá, hình ảnh người chiến sĩ vượt lên đỉnh cao của sự bi tráng. Giữa những mất mát, hy sinh ấy, những người chiến sĩ vẫn can trường tiếp bước, ra đi đầu không ngoảnh lại, dùng sinh mạng mình để chiến đấu bởi đây mới là cách thể hiện tấm lòng với những người đồng đội đã hy sinh. Ở “Chiều tối” ta cũng nhận thấy một tinh thần thép vượt qua mọi xiềng xích khổ sai của Bác. Dẫu bị giam cầm trong quá trình hoạt động Cách mạng nhiều năm, bị luân chuyển đến nhiều nhà giam nhưng ở Hồ Chí Minh, ta vẫn thấy một tinh thần bất khuất kiên định. Bất chấp cả thân thể và tinh thần đều kiệt quệ rã rời, Bác vẫn chưa một lần chùn bước, Người đã đánh đổi cả cuộc đời để giành trọn tự do cho dân tộc Việt Nam ta. Xem thêm Phân tích bài thơ Tây Tiến Quang Dũng hay nhất Phân tích đoạn 1 Tây Tiến chi tiết Một đoạn đường chuyển lao dài từ Tĩnh Tây sang Thiên Bảo, tay chân đều bị trói chặt bởi xiềng xích, Bác vẫn kịp thu vào mắt mình những cảnh đẹp của thiên nhiên, của thiếu nữ sơn cước. Những cánh chim mỏi như biểu trưng cho lòng khao khát tự do, Bác muốn được như cánh chim kia chao nghiêng đôi cánh của mình giữa khoảng không vô tận mà không có xiềng xích trói buộc. Tưởng Giới Thạch kia chỉ có thể trói buộc thân xác, vĩnh viễn không thể trói buộc tâm hồn của Bác. “Chim mỏi” còn có rừng để làm chốn ngủ, người tù nhân lúc này cũng thoáng nhớ quê hương, nhớ những khoảnh khắc đoàn tụ. Mỏi mệt sau ngày dài bị áp giải, thế nhưng chất chiến sĩ cùng với thi sĩ trong nhà thơ vẫn hiện hữu, nhà thơ gắng gượng đi tới rồi bắt gặp hình ảnh thiếu nữ sơn cước dưới lăng kính đầy thẩm mỹ. Hình ảnh con người lao động xuất hiện như thổi bùng sức sống cho bức tranh miền núi, cũng như cho tâm hồn người chiến sĩ. Ngọn lửa nơi lò than thiếu nữ xay ngô nhen nhóm lên một ánh lửa hồng, đó cũng là ánh lửa yêu nước rực cháy trong tim Bác, khi thổi bùng lên mãnh liệt, khi cháy một cách âm ỉ nhưng chưa từng mất đi. Có thể quan sát sự vật một cách có hồn, thi vị đến thế, Hồ Chí Minh lúc nào không còn là một tù nhân mà là một người chiến sĩ bất khuất mang trong người dòng máu nghệ sĩ. Xem thêm Tổng hợp Top 5 kết bài Tây Tiến hay nhất Top 5 mở bài Tây Tiến hay nhất Điểm chung trong tinh thần của người chiến sĩ ở hai bài thơ Tây tiến và Chiều tối Hai bài thơ đều khắc họa nên hình tượng những người chiến sĩ bất khuất, ý chí kiên cường vượt lên trên hiện thực khốc liệt để mang đến cho đất nước sự tự do. Luôn yêu đời, nhìn nghịch cảnh với lăng kính lạc quan, không bị khuất phục trước khó khăn, dùng thử thách làm bước đệm để vươn tới ngày mai. Tuy tinh thần người chiến sĩ hào hùng, lẫm liệt nhưng vẫn pha vào đó chất lãng mạn của người thi sĩ. Yêu thiên nhiên và con người lao động, những người chiến sĩ không cứng nhắc, vô cảm mà luôn biểu lộ tinh thần lãng mạn ấy một cách mạnh mẽ. Điểm khác nhau trong tinh thần của người chiến sĩ ở hai bài thơ Người lính Tây Tiến thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp là sự kết tinh của tinh thần bi tráng và lãng mạn được Quang Dũng vẽ nên bằng bút pháp lãng mạn. Những người chiến sĩ ấy hầu hết là sinh viên, tri thức Hà Nội tuổi đời chỉ vỏn vẹn mười chín, đôi mươi, họ đang ở độ tuổi đẹp nhất cuộc đời với đầy những hoài bão, khát khao của tuổi trẻ. Phong cách thơ phóng khoáng, lãng mạn, hào hoa của Quang Dũng cũng đã lột tả gần như đầy đủ hình ảnh những người lính xuất thân từ Hà Nội phồn hoa. Người chiến sĩ trong “Chiều tối” lại mang hình ảnh người bộ đội cụ Hồ với những tính cách giản dị, đơn sơ, mộc mạc, chân chất, đấy cũng chính là tính cách của vị lãnh tụ tài ba của đất nước ta. Phong cách thơ giản dị, mộc mạc kết hợp với sử dụng các bút pháp cổ điển – hiện đại kết hợp với chất thép – chất tình đã khắc họa nên một anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp thực thụ. Bức tranh thiên nhiên trong Tây Tiến và Chiều tối So sánh Tây tiến và chiều tối trong bức tranh thiên nhiên Tuy chỉ làm nền cho bước đường hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến, thiên nhiên nơi Tây Bắc hiện ra dưới muôn ngàn dáng vẻ khác nhau. Có khi là những lớp sương mù dày đặc muốn làm chùn bước chân người lính, có khi là những con dốc trực chờ lấy mạng con người. Nơi rừng thiêng nước độc, có những con vật luôn lẫn vào bóng đêm muốn tước mạng con người. Thế nhưng thiên nhiên Tây Bắc vẫn có những lúc nên thơ đến lạ. Buổi chiều sương Châu Mộc ấy với những khóm hoa lau đong đưa theo gió neo đậu chờ những con thuyền độc mộc đi ngang ngắm nhìn. Hoa đong đưa theo dòng nước lũ một cách nhịp nhàng, uyển chuyển khiến câu thơ chứa đầy thi vị. Bức tranh thiên nhiên của “Chiều tối” hấp dẫn người đọc bởi sự kết tinh giữa cổ điển và hiện đại. Hình ảnh cánh chim mỏi về rừng tìm chốn nghỉ kết hợp với sự lững lờ trôi của những áng mây khiến người tù nhân như thoát khỏi thực tại khốc liệt, hòa mình với sự thanh bình của tạo hóa. Hình ảnh con người đẹp nhất chính là khi lao động, cô thiếu nữ xay ngô khi tia nắng cuối cùng khuất bóng, lò than cứ đỏ lửa lấp lánh những ánh hồng. Xem thêm So sánh Tây Tiến và Đất nước So sánh bài thơ Tây Tiến và Việt Bắc Kết bài nghị luận văn học So sánh Tây tiến và chiều tối So sánh Tây Tiến và Chiều tối, hai bài thơ đều là những bức tranh đẹp về tinh thần của người chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp. Nếu “Tây Tiến” đại diện cho những chiến sĩ lãng mạn, hào hoa thì chiến sĩ “Chiều tối” lại mang đặc điểm mộc mạc, giản đơn. Hai lăng kính về những người chiến sĩ dẫu khác nhau nhưng cũng mang những nét tương đồng là tinh thần hy sinh vì tự do Tổ quốc, sẵn sàng vượt lên hiện thực khắc nghiệt không chút nề hà. Cả hai bài thơ đều để lại cho những thế hệ sau bài học về tinh thần yêu nước, về những chiến sĩ kháng chiến một cách nhân văn. “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng” Nguyễn Đăng Điệp. Đề tài người chiến sĩ – người trực tiếp xông pha vì nền độc lập tự do của Tổ quốc là một đề tài phổ biến trong thơ ca cách mạng. Thế nhưng, mỗi tác giả lại có riêng cho mình một cảm nhận khác nhau về vẻ đẹp của những người cầm súng. Đối với Quang Dũng, hình tượng những người lính Tây Tiến trong ông được tái hiện bằng “đôi cánh lãng mạn”. Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài, ngoài sáng tác văn chương ông còn soạn nhạc và vẽ tranh. Ông có một hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, hào hoa – đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài tức Sơn Tây – quê hương ông. Bài thơ Tây Tiến là sự thăng hoa trong sự nghiệp văn học của Quang Dũng. Được sáng tác năm 1948, khi Quang Dũng ở Phù Lưu Chanh công tác ở đơn vị mới và nhớ về những tháng ngày cũ tại trung đoàn 52 Tây Tiến. Đoạn thơ đầu tiên gồm 14 câu diễn tả nỗi nhớ da diết của ông về thiên nhiên miền viễn Tây, về những nơi mà binh đoàn Tây Tiến đã đi qua trong các cuộc hành quân đầy gian khổ. Hai câu thơ đầu tiên thể hiện cảm xúc bao trùm của cả đoạn thơ. Đó là nỗi nhớ nhung của tác giả về dòng sông Mã, về binh đoàn Tây Tiến, về núi rừng Tây Bắc. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” Một tiếng gọi “Tây Tiến ơi!” nghe sao mà thân thương đến thế. Nỗi nhớ phải cồn cào, da diết đến đâu thì tác giả mới gọi một tiếng ấy, gọi người bạn cũ, gọi người thương cũ đã từng trải qua bao gian lao, bao vất vả. Sông Mã là con sông chảy dọc biên giới Việt Lào, qua các tỉnh Sầm Nưa, Điện Biên, Sơn La… Sông Mã như một thành viên của đoàn binh Tây Tiến, là một chứng nhân lịch sử, nhìn thấy hết mọi gian khổ, hi sinh và cả mọi chiến công của người lính. Ngoài dòng sông, kí ức về một thời đã xa của nhà thơ còn là ký ức về rừng núi miền viễn Tây “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Mảnh đất yêu thương của từng người lính Tây Tiến – mảnh đất Tây Bắc, nơi họ đã sống và chiến đấu, giờ đây trở thành kỉ niệm thật đẹp trong tâm trí. Rừng núi xứ Tây Bắc như Chế Lan Viên nói là “Xứ thiêng rừng núi anh đã từng/ Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất” Tiếng hát con tàu. Vần “ơi” được điệp lại ba lần diễn tả nỗi nhớ mênh mang, da diết, vang vọng của nhà thơ. Ta biết tới nỗi nhớ chơi vơi trong ca dao “Ra về nhớ bạn chơi vơi” hay trong thơ Xuân Diệu “Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” Nhị Hồ. Nhưng khác với nỗi nhớ về tình riêng, nỗi “nhớ chơi vơi” trong thơ Quang Dũng là dành cho Tây Tiến, dành cho những người đồng đội. Từng địa danh gắn liền trong chặng đường hành quân của đoàn binh Tây Tiến lần lượt hiện ra trong các câu thơ một cách chân thực Sài Khao, Mường Lát, Mai Châu, Châu Mộc. Mỗi nơi xa xôi, hoang sơ ấy hiện về trong kí ức của nhà thơ với bao thương nhớ da diết, khôn nguôi. Đó có chăng là “Những tên làng, tên núi, tên sông/Những cái tên đọc lên nghe muốn khóc”? Tác giả nhớ về những cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến qua miền Tây hoang sơ, dữ dội. Trước hết là đoạn đường qua Sài Khao sương mờ lối và cảnh Mường Lát thơ mộng “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi” Hiện thực chiến đấu khắc nghiệt được miêu tả hết sức chân thực sương che khuất lối, làm mờ đường đi, khiến đoàn quân mệt mỏi, rệu rã vì chặng đường gian khổ trùng điệp. Từ “mỏi” khiến cho âm điệu câu thơ chùng xuống. Thế nhưng, đối lập với vẻ khắc nghiệt còn là vẻ thơ mộng, trữ tình của núi rừng Tây Bắc “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ nhưng người lính không hề đánh mất đi tâm hồn lãng mạn, hào hoa, lạc quan, yêu đời của bản thân mình. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là sự cảm nhận tinh tế của họ trước vẻ đẹp của thiên nhiên miền Tây. Những thanh bằng kết hợp với các từ ngữ “hoa về” thay vì hoa nở, đêm hơi thay vì đêm sương đã gợi nét nhẹ nhàng, êm ả bên cạnh cái dữ tợn của thiên nhiên. Chặng đường hành quân qua các tỉnh miền Tây có bao nhiêu đèo dốc trùng điệp nối nhau, có bao nhiêu hiểm nguy đều được gợi ra rõ ràng trong ba câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” Nghệ thuật điệp từ “dốc” kết hợp với các từ láy tượng hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” diễn tả một không gian chỉ gồm những dốc núi hiểm trở có lúc khúc khuỷu, gập ghềnh, lúc thì sâu thăm thẳm. Người lính Tây Tiến cứ đi, đi mãi, chưa qua hết dốc này đã đến dốc khác. Câu thơ tiếp theo tô đậm thêm vẻ hùng vĩ của thiên nhiên đất trời miền Tây, tô đậm độ cao của những vách núi nơi đây. Hình ảnh “heo hút cồn mây” khiến chúng ta hình dung đến những ngọn núi cao chót vót, heo hút vắng người, quanh năm phủ kín mây mờ. Cách nói nhân hóa “súng ngửi trời” là cách nói hóm hỉnh của người lính. Dường như dốc cao đến độ, đầu súng trên vai người chiến sĩ có thể chạm đến tận trời xanh. Câu thơ đã cho thấy phong thái ngang tàn, ngạo nghễ của người lính Tây Tiến. Về tư thế làm chủ này, trong bài “Lên Tây Bắc”, Tố Hữu cũng từng nhắc đến, rằng “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều/ Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo/ Núi không đè nổi vai vươn tới”. Nhà thơ Quang Dũng sử dụng phép điệp “ngàn thước” cùng nghệ thuật tương phản, một bên “cao” một bên “xuống” nhằm diễn tả khung cảnh một bên núi cao chót vót, một bên lại thăm thẳm. Nhịp điệu 4/3 làm câu thơ như bị bẻ đôi, lại một lần nữa nhấn mạnh sự hiểm trở của đèo dốc núi rừng Tây Bắc. Khung cảnh đèo tiếp đèo, dốc tiếp dốc, cao chót vót, sâu thăm thẳm như thế này cũng được nói qua trong “Chinh phụ ngâm” Đặng Trần Côn “Hình khe thế núi gần xa/ Đứt rồi lại nối, thấp đà lại cao”. Đoạn thơ sử dụng nhiều thanh trắc nhằm khắc họa rõ nét chặng đường hành quân về miền tây Bắc của đoàn binh Tây Tiến đầy những vất vả, gian lao, hiểm trở. Nói lên cái khó khăn hiểm trở bao nhiêu thì càng nhấn mạnh ý chí kiên cường của những người lính trẻ bấy nhiêu. Thông qua cái khắc nghiệt của núi rừng miền Tây, ta nhìn thấy được cả bao nhiêu vất vả của người lính Tây Tiến. Sau chặng đường đầy vất vả, người lính cùng đồng đội như đang dừng lại nghỉ ngơi bên triền dốc, họ nhìn xuống lung thũng quan sát những bản làng nơi Pha Luông, những mái nhà nho nhỏ ẩn hiện trong làn mưa “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” Đối lập với đoạn thơ trên chiếm chủ yếu là các từ mang thanh trắc, câu thơ này lại chứa các từ chỉ mang thanh bằng. Việc sử dụng thanh bằng đã làm không gian yên ả được mở ra, một sự thanh bình, một nét thanh thản được len lỏi vào trong tâm hồn người lính trẻ. Có thể nói, nhà thơ Quang Dũng đã rất tài tình khi kết hợp sử dụng các thanh điệu vừa để diễn tả chặng đường khúc khuỷu, gập ghềnh và nét êm ả, nhẹ nhàng; bên cạnh đó còn tạo nên nhạc tính cho bài thơ. Bàn về điều này, Xuân Diệu từng nhận xét “Đọc bài thơ Tây Tiến như ngậm nhạc trong miệng”. Trong hồi ức về khung cảnh miền Tây của nhà thơ còn có hồi ức về những người bạn, người đồng đội cùng đồng cam cộng khổ với ông trong suốt quãng thời gian công tác tại Trung đoàn 52 “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” Tây Tiến – Phân tích 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến – Quang Dũng – bài văn hay, nghị luận xã hội bài tây tiến Xem thêm các bài NLVH hay trên Văn học trẻ Sự trần thuật từ nhiều điểm nhìn là bằng chứng quan trọng về đổi mới quan niệm văn xuôi Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu về người nghệ sĩ và cuộc đời Phân tích vẻ đẹp con người trong văn Nguyễn Tuân sau Cách mạng qua đoạn trích “Cưỡi lên thác sông Đà phải cưỡi đến cùng … Họ nghĩ thế, lúc ngưng chèo.” Phân tích hình tượng con sông Đà hung bạo Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến Phân tích một số đoạn thơ tiêu biểu trong bài Tây Tiến – Quang Dũng Cách gọi “anh bạn” thân thương là cách gọi mà tác giả dành cho người đồng đội đã ngã xuống trong chặng đường hành quân. Một hiện thực khốc liệt hiện lên, đó là sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Họ “gục lên súng mũ”, họ “bỏ quên đời”, về với đất mẹ, về nơi xa xăm. Cách nói giảm nói tránh của nhà thơ làm cho sự mất mát của người lính trở nên nhẹ nhàng hơn, đỡ đau xót hơn. Ờ đây Quang Dũng miêu tả cái chết của đồng đội như một sự xả thân cho lý tường. Người lính chết mà vẫn cầm chắc tay súng, chết trong tư thê lên đường, tư thế hành quân. Đây là hình ảnh vừa bi vừa hùng làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của người lính. Gian khổ đâu chỉ là núi đèo cao chót vót, đâu chỉ là cái chết rình rập mà còn là sự nguy hiểm, dữ dội từ nơi rừng thiêng nước độc. Chặng đường hành quân càng thêm khó khăn khi người lính phải hành quân qua những nơi hoang vu đầy thú dữ, phải vượt qua từng cơn giận giữ của các con thác “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” Tây Bắc dữ dội ngoài mở ra theo chiều rộng không gian bằng cách địa danh Pha Luông, Sầm Nưa, Mường Hịch,… mà còn mở ra theo chiều rộng thời gian với hai cụm từ “chiều chiều”, “đêm đêm”. Có chăng cả ngày và đêm ở mảnh đất này chỉ có cọp dữ và thác thiêng ngự trị. Cách nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” nhấn mạnh cái hoang vu, rùng rợn và cái uy lực của thiên nhiên. Người lính Tây Tiến phải đối mặt với tất cả những điều ấy cơn thịnh nộ của các con thác và chúa tể của rừng xanh – loài cọp hung dữ. Chặng đường qua những địa danh với người đọc thuở ấy còn đầy bí hiểm, hoang sơ có biết bao hiểm nguy luôn chực chờ người lính. Thậm chí, những địa danh ấy còn khiến nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng hai chữ “Mường Hịch” nghe như bước chân cọp rậm rịch rình người trong đêm tối. Sau bao ngày trèo đèo, vượt núi, băng rừng, binh đoàn Tây Tiến dừng lại nơi bản làng Mai Châu ngày mùa, đón nhận tình yêu, lòng nhiệt thành từ đồng bào nơi đây dành cho họ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” Các anh đã được đồng bào, đặc biệt là các cô gái miền sơn cước xinh đẹp như những bông hoa rừng đón tiếp niềm nở bằng những bữa cơm nếp xôi mà khói hương từ đấy cứ thơm ngát mỗi bước quân hành. Hương thơm ấy quyến luyến còn đọng lại mãi như nhà thơ Quang Huy đã viết “Buổi tiễn anh đi em hơ tầu chuối ngự /Gói xôi rền thơm mãi giữa hàng quân” Màu kỷ niệm. Và trong “Tiếng hát con tàu”, nhà thơ Chế Lan Viên cũng nói về hương thơm của vắt xôi “Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng…Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”. Hình ảnh “cơm lên khói”, “mùa em thơm nếp xôi” là những hình ảnh mà tác giả nhớ da diết về Tây Bắc, về tình quân dân ấm nóng giữa Tây Tiến và “em” cùng các đồng bào dân tộc nơi bản làng Mai Châu. Người lính Tây Tiến có đâu quên những khung cảnh hạnh phúc xóm làng trong ngày mùa, có đâu quên những tấm lòng thơm thảo nơi đất lạ. Mười bốn dòng thơ mở đầu chủ yếu khắc tạc bức tranh thiên nhiên vô cùng hoang sơ, hùng vĩ trong nỗi nhớ của Quang Dũng. Từ thiên nhiên ấy, nhà thơ làm nổi bật hình ảnh những người lính Tây Tiến với tầm vóc lớn lao, với ý chí kiên cường, với tâm hồn phơi phới niềm tin, niềm lạc quan đã tạo nên sức mạnh đạp bằng mọi gian khổ hy sinh để đi tới. Bút pháp chủ đạo là lãng mạn kết hợp với bút pháp hiện thực đã đưa độc giả đến với những địa danh xa xôi của miền viễn Tây, hình dung về cuộc sống chiến đấu gian khổ của trung đoàn Tây Tiến. Ngôn ngữ thơ giàu tính hình tượng và nghệ thuật tương phản, đối lập đã làm nên bức tranh núi rừng miền Tây giàu đường nét, màu sắc. Cuối cùng, nghệ thuật hài thanh đã góp phần tính nhạc cho đoạn thơ. Nhà giáo Lương Duy Cán đã rất say sưa ca ngợi Tây Tiến “ có những ngày tháng không thể quên, cái gian khổ ác liệt không thể quên, cả cái hào hùng lãng mạn không thể quên. May mắn thay, giữa những ngày tháng không thể quên ấy, lại có những bài thơ không thể quên, như Tây Tiến của Quang Dũng”. Dẫu trải qua bao nhiêu cuộc “bãi bể hóa nương dâu”, “Tây Tiến” đã đang và sẽ mãi sống trong lòng người đọc với hình ảnh người lính lãng mạn, hào hoa, phong nhã nhưng không hề bi lụy. Tác giả bài viết Châu Nguyễn Ái My – CTV Văn học trẻ Bài viết Phân tích 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến độc quyền trên Văn học trẻ vừa giúp cho các bạn thấy được nét đẹp thơ ca và tình cảm tác giả dành cho những người lính Tây Tiến dù gặp nhiều gian khổ nhưng vẫn hào hoa phong nhã, dù bi tráng nhưng vẫn lãng mạn. Ủng hộ Văn học trẻ bằng cách đọc nhiều bài viết trên page và học tập thật tốt nhé. Tây Tiến là bài thơ hay của Quang Dũng. Phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Kháng chiến chống Pháp đã đi qua, nhưng qua những vần thơ, bài hát, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được một quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Quang Dũng với tác phẩm “Tây Tiến” đã đưa vào văn chương kháng chiến một luồng gió mới. Thông qua việc phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được hình ảnh quả cảm, đau thương nhưng đầy mộng mơ của những người lính tri thức bấy giờ. Khái quát tác giả, tác phẩm Quang Dũng thuộc lớp nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp. Không chỉ viết thơ hay, ông còn được biết đến là một nghệ sĩ tài năng với khả năng viết văn, soạn nhạc, vẽ tranh. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, tâm hồn nhà thơ vì thế cũng đầy mơ mộng. Cũng bởi thế mà thơ của ông phóng khoáng mà hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Chân dung tác giả Quang Dũng Phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây tiến dể thấy Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, là là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh – sinh viên đã lên đường tham gia kháng chiến, phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Họ lên đường với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong quá trình chuyển sang đơn vị khác, Quang Dũng đã nhớ về Tây Tiến và sáng tác nên bài thơ này. Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” năm 1986. Ban đầu, bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó được đổi thành “Tây Tiến”. Việc bỏ từ “nhớ” đã giúp cho tâm tư, tình cảm của Quang Dũng trở nên kín đáo hơn. Luận điểm 1 Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã tập trung khắc hoạ lại núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Điều đặc biệt là khung cảnh ấy hiện về trong ký ức của người lính trẻ “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Qua hồi ức của tác giả, hình ảnh “Sông Mã”, “Tây Tiến” giờ đây đều như trở thành những người thân thương ruột thịt. Mà với nơi đây, Quang Dũng dành trọn vẹn tình cảm nhớ thương của mình. Cụm từ “nhớ chơi vơi” gợi tả một nỗi nhớ rất lạ lùng. Đó là nỗi nhớ của những người lính đến từ phố thị xa hoa, nỗi nhớ làm tim như chững lại, chới với, không có điểm dừng. Nỗi nhớ ấy, vừa nhẹ nhàng, lại vừa mãnh liệt đến lạ. Dường như núi rừng Tây Bắc đã khắc sâu vào tâm hồn những người lính trẻ biết bao điều. Đó là những kỷ niệm không bao giờ quên trong suốt cuộc đời, và hơn cả, đó cũng là nỗi trống trải, lạc lõng, đậm nỗi nhớ và nỗi buồn man mác trong lòng thi sĩ Quang Dũng. ĐỌC THÊM NGHỊ LUẬN VĂN HỌC CHẤT HỌA CHẤT NHẠC TRONG "TÂY TIẾN" Luận điểm 2 Hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính Sau hai câu thơ đầu miêu tả nỗi nhớ, hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính được miêu tả rõ nét. Qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, không gian hiện lên đầy chất thơ “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi. Mường Lát hoa về trong đêm hơi.” “Sài Khao”, “Mường Lát” đều là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Nó càng làm nhân lên nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả với hình ảnh “sông Mã” ở đầu. Thế nhưng đến đây, không gian đã được mở rộng hơn, với nhiều chi tiết khơi gợi kỉ niệm hơn. Vùng núi Sài Khao sương giăng kín lối, dường như chôn lấp đi hình ảnh “đoàn quân mỏi” sau chặng đường dài. Cùng với sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều là những kỉ niệm khơi gợi và chứng minh nỗi nhớ vô cùng của tác giả. Quang Dũng đã sử dụng động từ “hoa về” thay vì “hoa nở”, “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”. Cách kết hợp từ này gợi tả không gian đầy trữ tình, huyền ảo, lung linh như không có thực. Giờ đây, nỗi nhớ của nhà thơ như dàn trải khắp không gian rộng lớn. Mỗi nơi mà nơi bước chân người lính đã đi qua, họ đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, khiến chúng trở thành những kỷ niệm khắc sâu trong lòng mãi mãi không thể quên. Những người lính Tây Tiến Tiếp theo những vẫn thơ trữ tình, Quang Dũng lại sử dụng các câu thơ mạnh hơn, gợi lên sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Qua đó cho thấy sự vất vả, khó khăn và những nỗ lực kiên cường của người lính khi hành quân chiến đấu “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời.” Sử dụng câu thơ toàn thanh trắc, tác giả đã gợi ra một địa hình vô cùng hiểm trở. Cùng với các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, cái vất vả, khổ cực lại càng được nhân lên. Thế nhưng vượt lên cái khó khăn ấy, người lính vẫn luôn mang một tâm hồn lãng mạn. Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” hiện lên vô cùng thú vị. Nó đã thể hiện một tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và rất đỗi hài hước của người lính chiến trong hoàn cảnh chiến đấu nhiều khó khăn, thiếu thốn. Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại gợi ra vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi rừng hoang vu. Sử dụng thanh bằng cùng hình ảnh “mưa xa khơi”, Quang Dũng gợi lên sự bình yên, ấm áp. Đây chính là chốn dừng chân cho người lính sau những ngày hành quân vất vả, khổ cực. ĐỌC THÊM NHẬN ĐỊNH VỀ TÁC GIẢ QUANG DŨNG VÀ THI PHẨM QUANG DŨNG Luận điểm 3 Hình ảnh người lính và kỉ niệm tình quân dân Sau những vần thơ tả cảnh, Quang Dũng viết lên những câu thơ đặc tả người lính, ám ảnh và khắc sâu vào tâm trí độc giả “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời.” Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã lột tả được cái khắc nghiệt của chiến tranh, và cũng trân trọng sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Họ đã ra đi, trong tư thế hiên ngang, oai hùng, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Chỉ là “bỏ quên đời” thôi, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng, “không bước nữa”, chứ không hề nuối tiếc điều gì. Họ đã chiến đấu và hi sinh trong tư thế ngẩng cao của nòng súng, rồi trở về với đất Mẹ thiêng liêng lại rất đỗi bình thản. Chứng kiến những người đồng đội chiến đấu, rồi ngã xuống, Quang Dũng không khỏi xót xa. Ông thương cảm nhưng cũng khâm phục tinh thần hi sinh của những con người dũng cảm ấy “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.” Câu thơ đặc tả vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ và các động từ mạnh “gầm”, “trêu”,… đã làm nổi bật sự nguy hiểm tột độ. Đó là cái nguy hiểm luôn rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú, của thiên nhiên với thác xối, núi nhọn. Để rồi cuối cùng, nhà thơ như bừng tỉnh khỏi những kỉ niệm của mình. Những hồi ức đó, ngỡ như đang được sống lại, thì vỡ vụn với nỗi nhớ da diết, nồng nàn “cơm lên khói” “thơm nếp xôi”. Tình quân dân tha thiết, ấm nồng với hương lửa, nắm xôi, những ngày còn chiến đấu cứ ám ảnh mãi không thôi. Sau tất cả, con người và tình cảm quân dân luôn là nỗi nhớ đọng lại nơi người lính, là chút nương tựa của tâm hồn họ mỗi khi mỏi mệt, gian nan. Kết bài Chỉ với 14 câu thơ, Quang Dũng đã khắc hoạ được thiên nhiên Tây Bắc với đầy đủ sắc thái khác nhau. Từ đó làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trẻ nói chung. Họ sẵn sàng từ bỏ ánh điện phố thị, buông bút nơi giảng đường để cầm súng chiến đấu. Dù khó khăn, gian khổ chất chồng thì sự quyết tâm, tinh thần lạc quan và tâm hồn mơ mộng vẫn không hề vơi bớt. Nguồn ST Để tham khảo thêm nhiều bài viết hay, và chạy nước rút hiệu quả, hãy đăng ký sở hữu các đầu sách và đăng ký khoá học của HVCH nhé! Link đặt sách Link đăng ký Khóa nền Link đăng kí khoá VIP Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH Fanpage Học văn chị Hiên Youtube Học văn chị Hiên - Youtube IG Học văn chị Hiên Tiktok Học văn chị Hiên

nghị luận văn học về tây tiến